6 tháng triển khai “Bình dân học vụ số”: Từ lớp học cộng đồng đến gia đình số, chợ số
2 giờ trước | Lượt xem: 39 In bài viết |Xuất phát từ yêu cầu thực thi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ngày 26/3/2025, tại Đại học Bách khoa Hà Nội, phong trào “Bình dân học vụ số” chính thức được phát động và triển khai trên toàn quốc.
6 tháng sau thời điểm phát động, bức tranh chuyển đổi số toàn dân dần hình thành với tiêu chí lan tỏa nhanh, dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, bám sát mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình số hóa quốc gia.
Từ trung ương đến cơ sở, tinh thần “bình dân học vụ” năm xưa đã được làm mới bằng công nghệ và các nền tảng số, hướng tới phổ cập kiến thức, kỹ năng số cơ bản cho mọi người dân, từ cán bộ, đảng viên, học sinh, đến công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế.
Theo đó, nội dung phổ cập Bình dân học vụ số tiến vào từng nhóm đối tượng bằng nhiều cách tiếp cận linh hoạt. Với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước, các lớp tập huấn chuyên sâu được tổ chức, góp phần nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong công việc, kỹ năng sử dụng nền tảng số và an toàn thông tin.
Thông tin từ Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương cho biết, tại một số địa phương, tỷ lệ nắm kiến thức và kỹ năng số cơ bản đạt mức cao, như Hải Phòng 98% hay Hà Tĩnh 85%, phản ánh tác động thiết thực của phương thức tổ chức bài bản, có kiểm tra, đánh giá, có thực hành trong môi trường công vụ.
Với học sinh, sinh viên, giáo dục kỹ năng số và AI được tích hợp trong cả chính khóa và ngoại khóa; nhiều nơi đạt 100% hoặc tiệm cận 100% đối tượng được trang bị kiến thức cơ bản, qua đó hình thành thói quen công dân số ngay từ nhà trường, chuẩn bị cho học tập suốt đời trong kỷ nguyên số.
Với người lao động và người dân, các lớp chuyên biệt cho người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được mở tại cộng đồng; nội dung tập trung vào kỹ năng thiết yếu như hướng dẫn sử dụng dịch vụ công trực tuyến, kích hoạt và sử dụng VNeID, thanh toán không tiền mặt, nhận diện các rủi ro lừa đảo số.
Tại nhiều chợ truyền thống, tiểu thương bắt đầu sử dụng mã QR, sổ bán hàng điện tử. Nhà hàng, quán cà phê, không phân biệt quy mô, sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối với cơ quan thuế khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng tiêu dùng từ ngày 01/6/2025, góp phần minh bạch hóa hoạt động kinh doanh.
Ở nông thôn, nông dân học cách đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử, học chụp ảnh sản phẩm, gắn nhãn, xử lý đơn hàng, từng bước làm quen với “nhà kho” dữ liệu nhỏ sản xuất ngay từ điện thoại thông minh. Các khóa học ngắn, lịch linh hoạt, hướng dẫn trực tiếp kèm thực hành là chìa khóa để những kỹ năng tưởng chừng xa lạ trở nên hữu dụng trong đời sống hằng ngày.
Một loạt mô hình cộng đồng được dựng lên như những điểm tựa lan tỏa kỹ năng số. Tổ công nghệ số cộng đồng tiếp tục chứng minh vai trò “cánh tay nối dài” của Ban Chỉ đạo: “đi từng ngõ, gõ từng nhà”, hướng dẫn người dân cài đặt ứng dụng, dùng dịch vụ công trực tuyến, nâng cao an toàn thông tin, hỗ trợ học tập trên nền tảng số cho nhóm yếu thế.
Ở một số tỉnh như Hà Tĩnh, Cần Thơ, Quảng Trị, mô hình “Gia đình số” được triển khai với các tiêu chí nền tảng, coi “mỗi gia đình là một lớp học số nhỏ”, thúc đẩy cha mẹ và con cái học cùng nhau, gắn kỹ năng số với văn hóa gia đình.
Trên nền xã hội, mô hình “Chợ số - Nông thôn số” tạo đột phá ở điểm chạm kinh tế: tiểu thương, nông dân tập huấn về thương mại điện tử, thanh toán số, tiếp thị trực tuyến; chính quyền hỗ trợ kết nối hạ tầng, phối hợp gọi vốn xã hội hóa cho thiết bị và đường truyền.
Song song với đó, chiến dịch Thanh niên tình nguyện thắp lửa xung kích, lập đội hình “cầm tay chỉ việc” cho người già, người yếu thế, đưa hoạt động phổ cập số tới tận làng, xã, vào những không gian sống động nhất của cộng đồng.
Khóa bồi dưỡng về chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong thực thi công vụ dành cho công chức, viên chức Bộ Dân tộc và Tôn giáo diễn ra từ ngày 29/9-02/10/2025
Trên mặt trận thông tin tuyên truyền, các đơn vị thông tấn, báo chí đa dạng hóa format và kênh lan tỏa, từ những bài viết hướng dẫn “cầm tay chỉ việc” cho đến phóng sự về các tập thể, cá nhân tiêu biểu.
Với nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo, phong trào đã chú trọng việc tiếp cận bằng những giải pháp “địa văn hóa”. Thay vì một thông điệp thống nhất cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân, phong trào có xu hướng “chia nhỏ” thông điệp và phương thức tiếp cận để phù hợp từng cộng đồng.
Đài Tiếng nói Việt Nam đã triển khai kênh thông tin về Bình dân học vụ số bằng 13 thứ tiếng dân tộc thiểu số, như Thái, Mông, Dao, Ê-đê, Khmer…, coi đây là “cầu nối” gần gũi để vận động, hướng dẫn đồng bào vùng sâu, vùng xa tiếp cận kỹ năng số căn bản một cách tự nhiên và hiệu quả.
Ở cấp địa phương, TP. Cần Thơ đã mời Thượng tọa, Tiến sĩ Lý Hùng tham gia tuyên truyền về Bình dân học vụ số trong đồng bào Khmer, cho thấy cách tiếp cận dựa vào người có uy tín tôn giáo, chức sắc tôn giáo giúp tăng sức thuyết phục đối với các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng.
Cách tiếp cận linh hoạt nêu trên góp phần làm giảm lực cản tâm lý, đưa kỹ năng số ra khỏi “lớp học” khô khan để bước vào không gian sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng quen thuộc, nơi một hướng dẫn đầy đủ, kịp thời có thể góp phần thay đổi thói quen sử dụng giấy tờ trong các thủ tục hành chính sang dịch vụ công trực tuyến, hay góp phần nâng cao ý thức cảnh giác trước chiêu trò lừa đảo trực tuyến ngày càng tinh vi.
"Công dân số" là chương trình được Đài THVN triển khai kể từ ngày 18/4/2025, với sứ mệnh đẩy mạnh thông tin, nâng cao nhận thức cho người dân về vai trò, tầm quan trọng của phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số
Bên cạnh những kết quả đã đạt được sau 6 tháng triển khai Bình dân học vụ số, có thể nhận định một vài “nút thắt” cần tháo gỡ, đó là khoảng cách số vẫn lớn do chất lượng hạ tầng chưa đồng đều, nhiều nơi còn “vùng lõm sóng”; kinh phí hoạt động hạn hẹp, thiếu nhân lực công nghệ thông tin chuyên trách ở cơ sở. Dữ liệu số còn phân tán, thiếu kết nối liên thông.
Ở bình diện tâm lý, một bộ phận người dân, đặc biệt là người cao tuổi, lao động phổ thông, đồng bào dân tộc thiểu số, còn e ngại đổi mới, chưa nhìn thấy lợi ích trực tiếp của kỹ năng số trong mưu sinh và đời sống thường nhật. Những điểm nghẽn này không mới, nhưng được biểu hiện rõ hơn khi phong trào đi vào thực chất, tiếp xúc rộng với các cộng đồng đa dạng.
Cũng từ đây, trọng tâm của phong trào cho thời gian tiếp theo được định vị theo hai trục vừa rộng vừa sâu.
Trục “rộng” là tiếp tục củng cố chỉ đạo, điều phối thống nhất; hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhất là sau các sắp xếp địa giới hành chính; bồi đắp truyền thông trên mọi phương tiện, phát huy vai trò của báo chí chủ lực, mở rộng hệ sinh thái nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, đa ngôn ngữ. Đáng chú ý, tài liệu tuyên truyền dự kiến được thiết kế theo hướng “nói trúng” nhu cầu từng nhóm, có phiên bản tiếng dân tộc thiểu số để tăng khả năng tiếp cận.
Trục “sâu” là nâng chất lượng phổ cập, như bồi dưỡng cán bộ theo hướng ứng dụng AI vào công việc; tích hợp kỹ năng số trong giáo dục phổ thông, nghề nghiệp và đại học; mở rộng lớp học cộng đồng cho người lao động, người yếu thế; phát triển nền tảng “Bình dân học vụ số” quốc gia và các nền tảng địa phương, chuẩn hóa kho học liệu số theo nhiều định dạng như video ngắn, infographic, học phần tương tác.
Các mô hình hiệu quả sẽ được nhân rộng, gắn chặt hơn với thực tiễn văn hóa - kinh tế từng vùng miền.
Tổ công nghệ số cộng đồng tiếp tục được kiện toàn về nhân lực, công cụ và quy trình hoạt động để phát huy hiệu quả hỗ trợ cộng đồng.
Mô hình “Đại sứ số” phát huy vai trò của những người trẻ, nghệ nhân, chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng để dẫn dắt thay đổi hành vi số theo cách mềm mại mà thuyết phục.
Mô hình “Gia đình số”, “Chợ số - Nông thôn số” thêm tiêu chí chất lượng, đo lường tác động qua các chỉ số sử dụng dịch vụ công trực tuyến, tần suất thanh toán không tiền mặt, số hộ, sạp tham gia sàn thương mại điện tử.
Mục tiêu là biến phong trào thành “đường dây nóng” kết nối chính sách với hành vi thường ngày, nơi mỗi thao tác nhỏ - nộp hồ sơ trực tuyến, tra cứu kết quả, thanh toán học phí, khai thác nông sản trên sàn - đều là lớp học thực hành.
Một yêu cầu khác được nhấn mạnh là an ninh, an toàn mạng. Bên cạnh phổ cập kỹ năng, người dân cần được trang bị khả năng nhận diện tin giả, lừa đảo công nghệ cao, các chiêu trò chiếm đoạt tài khoản, dữ liệu. Các cơ quan chức năng cần tăng cường phối hợp, chia sẻ dữ liệu cảnh báo sớm, cập nhật tình huống và khuyến nghị phòng ngừa theo cách “giản dị mà hiệu quả” để phù hợp với đại đa số.
Từng địa phương có thể thí điểm các “điểm tư vấn số” đặt tại bộ phận một cửa, bưu cục, điểm bưu điện văn hóa xã, trung tâm thanh thiếu niên… để người dân tìm đến khi gặp trục trặc trong thao tác số, đảm bảo phong trào không chỉ dừng ở lớp học mà còn có dịch vụ hỗ trợ sau đào tạo.
Hệ thống Chi nhánh và Điểm phục vụ hành chính công thuộc các UBND 126 xã/phường tại Hà Nội đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025
Về công tác kiểm tra, giám sát, thi đua - khen thưởng, yêu cầu đặt ra là hoàn thiện bộ chỉ số đánh giá bám sát mục tiêu phổ cập theo nhóm đối tượng; lịch kiểm tra định kỳ để phát hiện, điều chỉnh kịp thời; cơ chế ghi nhận, biểu dương tập thể – cá nhân xuất sắc nhằm tạo động lực cho tuyến đầu ở cơ sở.
Một bộ chỉ số gọn, dễ đo, phản ánh đúng chất lượng học - hành - dùng sẽ giúp phong trào tránh “bệnh thành tích”, giữ đúng nhịp thực chất, khuyến khích cách làm sáng tạo nhưng không xa rời chuẩn chung.
Sau sáu tháng, có thể nói “đường băng” cho phổ cập kỹ năng số toàn dân đã được hình thành với nhiều điểm cất cánh.
Giai đoạn tiếp theo, phong trào xác định bốn mũi nhọn: kết nối hạ tầng đến những nơi cuối cùng; chuẩn hóa và mở kho tài nguyên học liệu để ai cũng có thể học; nhân lực hướng dẫn viên cộng đồng đủ đông và đủ kỹ năng; cơ chế động viên kịp thời cho các mô hình thử nghiệm hiệu quả.
Mục tiêu nhằm biến kỹ năng số thành thói quen hằng ngày: nộp hồ sơ trực tuyến thay vì xếp hàng, thanh toán không tiền mặt cho khoản chi nhỏ, học một bài video ngắn để tự bảo vệ mình trên mạng.
Phong trào “Bình dân học vụ số” lan tỏa bằng nhiều sáng kiến, mô hình cộng đồng, đo đếm bằng hành vi sử dụng của từng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, đơn vị. Đó là cách để chuyển đổi số không còn là câu chuyện riêng của những trung tâm công nghệ, mà trở thành nhịp sống mới trong từng gia đình, từng thôn bản, từng phiên chợ. Khi kỹ năng số được học và dùng theo cách bình dân, dễ tiếp cận, bài toán lớn về chuyển đổi số quốc gia sẽ được giải bằng những phép cộng nhỏ mỗi ngày.
Lam Giang