25 năm phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”: góc nhìn từ vùng đồng bào DTTS&MN và tôn giáo

1 ngày trước |   Lượt xem: 101 |   In bài viết | 

Lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc được tổ chức đúng quy định, vừa bảo tồn bản sắc, vừa xây dựng nếp sống mới văn minh. Trong ảnh: các cô gái Mường tỉnh Hòa Bình trình diễn văn nghệ

Trong dòng chảy đổi mới liên tục của đất nước từ đầu thế kỷ XXI đến nay, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã trở thành một cuộc vận động xã hội quy mô lớn, đặt văn hóa vào đúng vị thế là nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực phát triển.

Ra đời trong bối cảnh Đảng và Nhà nước xác lập tầm nhìn chiến lược về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Chỉ thị 27-CT/TW tạo nền tảng chính trị - pháp lý, cùng những yêu cầu của thực tiễn, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội phát động từ năm 2000 trên phạm vi cả nước.

25 năm nhìn lại, phong trào đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một khẩu hiệu vận động để trở thành một cơ chế xã hội vận hành thường xuyên và có sức ảnh hưởng sâu rộng tại cơ sở.

Đặc biệt, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) và các khu vực có đời sống tôn giáo đa dạng, phong trào đã định hình thành một "thiết chế xã hội mềm". Đây là không gian chung nơi các giá trị gia đình, cộng đồng thôn bản, xóm đạo và các thiết chế văn hóa tôn giáo cùng gặp gỡ trên nền tảng chuẩn mực chung: sống văn minh, thượng tôn pháp luật, trân trọng bản sắc và tăng cường đoàn kết.

Từ chủ trương đến một "thiết chế xã hội mềm"

Trong bối cảnh đặc thù của vùng DTTS&MN và đời sống tôn giáo, phong trào được định hướng như một "trục lồng ghép". Vai trò này thể hiện ở việc kết nối nhiệm vụ phát triển văn hóa với các mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội, an sinh và an ninh trật tự, nhằm tạo ra sự phát triển bền vững từ gốc rễ cộng đồng.

Do đó, các danh hiệu như “Gia đình văn hóa”, “Làng, bản văn hóa - quốc phòng” hay “Xứ đạo bình yên - gia đình văn hóa”… không chỉ mang ý nghĩa thi đua, mà đã trở thành công cụ quản trị cộng đồng bằng chuẩn mực văn hóa. Các mô hình này được vận hành thông qua hệ thống tổ chức và lực lượng nòng cốt ngay tại cơ sở. Ở các vùng đồng bào có đạo, các mô hình “sống tốt đời, đẹp đạo” giúp hiện thực hóa phương châm kết nối đạo đức tôn giáo với trách nhiệm công dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết và đồng thuận xã hội.

Điểm mấu chốt của phong trào là dù mang tính “toàn dân” nhưng lại được tổ chức linh hoạt theo đặc thù từng vùng, miền. Tại vùng DTTS&MN, tiêu chí văn hóa luôn gắn chặt với các chỉ số phát triển. Các danh hiệu văn hóa ngày càng phản ánh trực tiếp mục tiêu giảm nghèo, nâng cấp hạ tầng, nâng cao chất lượng dân số, và phòng chống các hủ tục như tảo hôn, hôn nhân cận huyết. Sự điều chỉnh mềm dẻo này cho phép phong trào thích ứng với sự đa dạng về địa hình, phong tục, ngôn ngữ cũng như các thách thức khách quan của vùng cao.

Tập thể, cá nhân tiêu biểu trong phong trào xây dựng “Xứ, họ đạo tiên tiến” trên địa bàn quận Hoàn Kiếm (cũ), TP. Hà Nội được tuyên dương dịp Lễ Giáng sinh năm 2024

Cơ chế vận hành và các trụ cột triển khai

Tác động của phong trào đến từ một cơ chế vận hành được duy trì bền bỉ và gắn kết. Với vai trò thành viên nòng cốt của Ban Chỉ đạo Trung ương, Bộ Dân tộc và Tôn giáo vừa tham mưu chính sách, vừa phối hợp liên ngành và trực tiếp tổ chức tuyên truyền, tập huấn, kiểm tra tại các địa bàn trọng điểm. Hoạt động này được triển khai dựa trên ba trụ cột chính.

Trụ cột thứ nhất, tham mưu chính sách và lồng ghép nhiệm vụ: Đây là trụ cột nền tảng, nơi Bộ chủ động kết nối phong trào với các chương trình, đề án then chốt về dân tộc và tôn giáo, coi tiêu chí văn hóa là công cụ thực thi chính sách ở cơ sở.

Các mục tiêu của Đề án giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết giai đoạn 2015-2025 (Quyết định 498/QĐ-TTg), Đề án hỗ trợ bình đẳng giới vùng DTTS, và việc đưa Luật Tín ngưỡng, tôn giáo vào cuộc sống đều được "dịch" thành mục tiêu cụ thể trong khung đánh giá danh hiệu văn hóa.

Gần đây nhất, phong trào được đồng bộ hóa với Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN giai đoạn 2021-2030, đặc biệt là Dự án 6 về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.

Trụ cột thứ hai, phối hợp và tổ chức thực hiện: Một mạng lưới phối hợp rộng rãi đã được thiết lập với Ban Dân vận Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và nhiều bộ, ngành khác.

Trên nền tảng đó, công tác tuyên truyền, vận động được triển khai bằng nhiều hình thức đa dạng: từ hội nghị, hội thảo, tập huấn, tọa đàm đến biên soạn tài liệu song ngữ, xây dựng chuyên mục báo chí, phát thanh, truyền hình.

Hệ thống loa truyền thanh cơ sở và các đội tuyên truyền lưu động cũng được phát huy, đồng thời lồng ghép thông điệp vào các lễ hội, hội thi, giao lưu văn nghệ - thể thao. Cách làm này tạo ra một hệ sinh thái triển khai liên thông giữa thiết chế văn hóa và hệ thống chính trị cơ sở.

Trụ cột thứ ba, phát huy "hạt nhân mềm" - Người có uy tín và chức sắc tôn giáo: Đây là lực lượng nòng cốt đưa chủ trương, chính sách đến từng hộ gia đình. Chức sắc tôn giáo và người có uy tín trực tiếp tham gia vận động xóa bỏ hủ tục, hòa giải mâu thuẫn, giữ gìn an ninh trật tự và hướng dẫn cộng đồng thực hiện tiêu chí gia đình, làng bản văn hóa.

Khi tiêu chí “không tảo hôn, không hôn nhân cận huyết” được đưa vào khung danh hiệu, vai trò nêu gương của họ trở thành yếu tố quyết định để chuyển hóa chuẩn mực thành hành vi thường nhật.

Một điểm đáng chú ý là trong suốt 25 năm, mọi hoạt động của phong trào đều được thực hiện bằng phương thức lồng ghép trong các kế hoạch, chương trình thường xuyên do không có nguồn kinh phí riêng. Điều này vừa cho thấy sự tiết giảm nguồn lực, vừa đặt ra yêu cầu tổ chức tinh gọn, hiệu quả. Từ thực tiễn này, kiến nghị về việc bảo đảm nguồn lực riêng cho nhiệm vụ đã được nêu ra nhằm chủ động hơn trong giai đoạn tới.

Đồng bào dân tộc thiểu số tại bản Mấn 1, xã Nậm Xe, tỉnh Lai Châu (cũ) nghe phổ biến giáo dục pháp luật

Lộ trình phát triển của phong trào qua các giai đoạn

Chặng đường 25 năm của phong trào có thể được nhìn nhận qua từng giai đoạn 5 năm, với những trọng tâm chính sách được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn.

  • Giai đoạn 2001-2005: Đặt nền móng. Đây là thời kỳ phong trào xác lập vị thế ở cơ sở, với các tiêu chí văn hóa ban đầu được gắn với nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo và định canh định cư. Các mô hình đầu tiên như “xứ, họ đạo văn hóa” và “điểm sáng văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số” xuất hiện như những hạt nhân lan tỏa. Phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo” trở thành tiêu chí đánh giá quan trọng đối với cộng đồng tôn giáo.
  • Giai đoạn 2006-2010: Mở rộng và hoàn thiện thể chế. Phong trào đồng hành cùng các chương trình phát triển, tạo nền cho bước chuyển đi vào chiều sâu. Mạng lưới phối hợp liên ngành được định hình; các hoạt động tuyên truyền, tập huấn được chuẩn hóa; cơ chế biên soạn tài liệu song ngữ và truyền thông chuyên đề được tổ chức bài bản, giúp chính sách thấm sâu vào đời sống cộng đồng.
  • Giai đoạn 2011-2015: Tập trung vào giảm nghèo và chất lượng dân số. Giai đoạn này, phong trào gắn chặt với trục giảm nghèo và tăng cường vai trò của người có uy tín thông qua cơ chế, chính sách cụ thể, đưa họ trở thành cầu nối tin cậy. Các đề án giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết bắt đầu được triển khai tại Tây Bắc, Tây Nguyên. Các sự kiện văn hóa, tôn giáo quy mô như Liên hoan Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên 2012, Ngày hội Văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ 2014 và Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2014 được phối hợp tổ chức nhằm tôn vinh các giá trị di sản văn hóa, tôn giáo đã được Liên hợp quốc, UNESCO công nhận, đồng thời, tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
  • Giai đoạn 2016-2020: Lồng ghép sâu với các mục tiêu phát triển xã hội. Đây là bước tiến mới khi lồng ghép tiêu chí văn hóa với các mục tiêu xã hội phức tạp. Bộ chủ trì triển khai Đề án 498/QĐ-TTg, coi việc giảm tảo hôn, xóa bỏ hôn nhân cận huyết là tiêu chí quan trọng để xét danh hiệu văn hóa, đồng thời hình thành mô hình điểm “thôn, bản văn hóa không có tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống”. Việc đưa Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP vào cuộc sống cũng tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo phát triển mô hình “xứ đạo tiên tiến, sống tốt đời đẹp đạo”.
  • Giai đoạn 2021-2026: Kết nối với Chương trình mục tiêu quốc gia. Phong trào được lồng ghép trực tiếp vào CTMTQG phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS&MN. Trọng tâm là Dự án 6, tập trung bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với sinh kế như du lịch cộng đồng, bảo tồn chữ viết, phục hồi lễ hội, phát triển làng nghề. Cùng với đó là việc triển khai Chiến lược công tác tôn giáo giai đoạn 2021-2030, các giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo, hướng dẫn ứng dụng công nghệ số trong sinh hoạt tín ngưỡng…

Từ nguồn lực các chương trình hỗ trợ dành cho đồng bào DTTS, hộ gia đình ông Đinh Văn Thơ, người dân tộc Hrê ở tỉnh Quảng Ngãi (cũ) đã thu nhập hàng trăm triệu mỗi năm từ mô hình trồng ổi kết hợp chăn nuôi

Tác động của phong trào tại các vùng miền

Thành tựu của phong trào không chỉ thể hiện qua các danh hiệu thi đua mà được phản ánh rõ nét qua các kết quả cụ thể: sự hình thành chuẩn mực văn hóa mới, sự tham gia của cộng đồng và sự cải thiện của các chỉ báo xã hội.

Tác động trên phương diện xã hội: Cải thiện chỉ số dân số và hôn nhân. Một trong những kết quả định lượng rõ ràng nhất là sự chuyển biến trong hành vi hôn nhân gia đình tại vùng DTTS&MN đến từ việc lồng ghép tiêu chí “không tảo hôn, không hôn nhân cận huyết thống” vào việc xét duyệt danh hiệu văn hóa.

  • Minh chứng định lượng: Trong giai đoạn 2015-2020, tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giảm 4,7 điểm phần trăm so với năm 2014 (từ 26,6% xuống 21,9%). Tỷ lệ kết hôn cận huyết cũng giảm từ 0,65% xuống 0,56%. Tỷ lệ tảo hôn cũng được ghi nhận giảm rõ rệt ở nhiều vùng trọng điểm như Tây Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Đây là bằng chứng cho thấy khi danh hiệu văn hóa gắn với chuẩn mực sức khỏe, dân số, cộng đồng có động lực điều chỉnh hành vi bền vững.
  • Triển khai tại các vùng trọng điểm: Tại Tây Bắc và Trung du miền núi phía Bắc, mô hình “Bản văn hóa” được sử dụng như hạt nhân tổ chức, nơi người có uy tín được huy động để trực tiếp vận động thanh thiếu niên không tảo hôn, không kết hôn cận huyết. Tương tự, tại Tây Nguyên, mô hình “thôn, bản văn hóa không có tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống” cũng được triển khai, gắn việc xét danh hiệu văn hóa với các tiêu chí dân số - hôn nhân.

Tác động kinh tế - văn hóa: Bảo tồn di sản gắn với phát triển bền vững. Danh hiệu văn hóa ở thôn, bản ngày càng gắn chặt với các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp thiết thực cho mục tiêu của CTMTQG. Khi thiết chế văn hóa cơ sở đủ mạnh, phong trào trở thành "hạ tầng mềm" bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc.

Nhiều mô hình bảo tồn phong tục, chữ viết, phục hồi lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc được khởi xướng. Sự hình thành và lan tỏa của các mô hình “Làng văn hóa du lịch cộng đồng” tại các tỉnh miền núi, vừa bảo tồn di sản truyền thống, vừa thu hút du lịch, tạo thu nhập cho người dân là một minh chứng cho sự thành công của chiến lược bảo tồn di sản gắn với phát triển bền vững.

  • Tại Tây Nguyên, mô hình “Buôn văn hóa” trở thành bệ đỡ để bảo tồn và phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống đương đại. Sự kiện Liên hoan Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên 2012 là một ví dụ về hoạt động quy mô, tạo “không gian truyền thông” để chuyển tải thông điệp của phong trào theo ngôn ngữ bản địa.
  • Tại Tây Nam Bộ, mô hình “Ấp, phum sóc văn hóa” phản ánh cấu trúc cộng đồng và đời sống tín ngưỡng đặc thù. Ngày hội Văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ 2014 quy tụ đông đảo nghệ nhân, chức sắc tôn giáo, đồng bào Khmer từ nhiều tỉnh thành là một minh họa về không gian giao lưu văn hóa - tôn giáo, đồng thời là kênh truyền thông hiệu quả các chính sách của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc. Phát huy nguồn lực tôn giáo bằng các hoạt động an sinh gắn với cơ sở tôn giáo (lớp học tình thương, bệnh viện từ thiện…) được ghi nhận như một hướng xã hội hóa phù hợp.

Lễ hội đua bò tại vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang) được tổ chức náo nhiệt vào mỗi dịp lễ Sene Dolta của đồng bào dân tộc Khmer, thu hút sự tham gia của bà con địa phương và khách du lịch

Tác động trong lĩnh vực tôn giáo: Củng cố khối đại đoàn kết. Ở vùng đồng bào có đạo, việc phổ biến, hướng dẫn để Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đi vào đời sống đã mở rộng không gian pháp lý cho các tổ chức tôn giáo tham gia phong trào theo phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo”, qua đó góp phần bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và tăng cường sự đồng thuận xã hội. Các sự kiện, lễ hội tôn giáo và các hoạt động an sinh xã hội do cơ sở tôn giáo đồng hành đã trở thành phần sinh động của phong trào, đưa tiêu chí văn hóa thấm sâu vào đời sống cộng đồng có đạo.

Định hướng cho giai đoạn tiếp theo, tiếp tục coi việc lồng ghép mục tiêu, nhiệm vụ của phong trào với việc thực hiện CTMTQG là trục xuyên suốt, nhằm bảo đảm nguồn lực cho văn hóa cơ sở, phát huy vai trò của người có uy tín, chức sắc, chức việc tôn giáo, đồng thời, nhân rộng các mô hình gắn bảo tồn văn hóa với phát triển sinh kế và phát triển hệ thống truyền thông chuyên biệt trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Khi kiến nghị về nguồn lực được đáp ứng, phong trào sẽ có điều kiện chuyển từ “tiết giảm khéo” sang đầu tư “đủ và đúng”, qua đó nâng tầm đời sống văn hóa - tinh thần ở cơ sở.

Nhìn lại tổng thể, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã vượt tầm một cuộc vận động truyền thông để trở thành một cơ chế thực thi chính sách dựa trên chuẩn mực văn hóa. Từ “Bản văn hóa” ở Tây Bắc, “Buôn văn hóa” ở Tây Nguyên, “Ấp, phum sóc văn hóa” ở Tây Nam Bộ đến “xứ, họ đạo tiên tiến” trên cả nước, một Việt Nam thống nhất trong đa dạng đang hiện ra với nền tảng văn hóa vững chắc. Thành tựu 25 năm không chỉ đo bằng những con số thống kê về giảm hủ tục hay các sự kiện, lễ hội, mà còn bằng chất lượng đời sống tinh thần và niềm tin xã hội - những nền tảng quan trọng để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.

Thuần Linh